Vì sao quân Mông Cổ mạnh mà vẫn bị quân ta đánh bạn? Cùng chúng tôi tìm hiểu về chủ đề lịch sử thú vị này ngay dưới đây nhé!
Chiến tranh Mông Cổ – Đại Việt là cuộc chiến bảo vệ quê hương đất nước của quân dân Đại Việt đầu nhà Trần dưới thời Trần Thái Tông và các vua Trần. Đại Việt đã bảo vệ được nền độc lập của mình nhưng được cho là phải làm cống vật của nhà Nguyên để tránh những xung đột sau này. Ba cuộc kháng chiến này được coi là một trong những trang hào hùng nhất của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là những chiến công tiêu biểu của thời Trần. Vậy vì sao quân Mông Cổ mạnh mà vẫn bị quân ta đánh bại? Cùng tìm hiểu ngay dưới đây nhé!

Vì sao quân Mông Cổ mạnh mà vẫn bị quân ta đánh bại?
Quân Mông Cổ tuy mạnh nhưng vẫn bị quân ta đánh bại vì:
- Quân dân nhà Trần đã chuẩn bị chu đáo: nghe tin quân Mông Cổ sắp xâm lược, nhà Trần hạ lệnh cho cả nước sắm sửa vũ khí, thành lập các đội dân binh, ngày đêm luyện tập võ nghệ. kỹ thuật, sẵn sàng đánh địch.
- Vua nhà Trần đã có kế sách đánh giặc rất thích hợp và đúng đắn: Chủ trương “vườn không nhà trống” lợi dụng điểm yếu của quân Mông Cổ (lực lượng đông nhưng không mang theo lương thực mà chủ trương dùng chiến tranh nâng cao chiến tranh) và phù hợp khi tiềm lực quân đội nhà Trần còn non yếu.
- Quân dân thời Trần có ý chí quyết tâm, đoàn kết đánh giặc: Để thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” cần phải có sự đoàn kết, đồng lòng của toàn dân.
Thời điểm chống quân Mông Cổ quân đội được tổ chức như thế nào?
Cuộc chiến chống Nguyên Mông của quân dân thời Trần đã đi vào sử sách, không chỉ của Việt Nam mà còn của nhiều nhà sử học trên thế giới.
Trong bản chép tay của biên niên sử viết bằng tiếng Ba Tư của nhà sử học nổi tiếng thế kỷ mười ba Rasít út Đin (1247-1318), người ta đọc được những dòng sau đây về một đất nước xa xôi của Kafka (Giao Chỉ Quốc): “Nước đó có những vùng đất đi lại khó khăn, nhiều rừng rậm, giáp Karajan (Vân Nam), một phần giáp Ấn Độ giáo và đường biển … ở nước đó có quốc vương riêng, không phục người Hãn (Mông Cổ). Tugan, con trai của Han, chỉ huy quân đội Lukinfu (thuộc Phủ Giang Tây) để bảo vệ vùng Manzi (Nam Trung Quốc) cũng như ngăn chặn và chống lại những kẻ không phục. Một lần, Tugan đưa quân vào đất nước đó, chiếm các thị trấn ven biển và thống trị ở đó trong một tuần. Nhưng đột nhiên ngoài biển, từ rừng, từ núi, quân đội của đất nước đó xuất hiện để đánh bại đội quân của Tugan đang lo lắng về nạn cướp bóc. Tugan trốn thoát và trở lại làm việc ở Lukinfu.

Theo ghi chép lịch sử, quân đội Mông Cổ lúc bấy giờ là một đội quân rất tốt: “… Hàng trăm kỵ binh xoay, có thể bao gồm mười nghìn người, hàng ngàn kỵ binh phân tán có thể lên tới một trăm dặm dài. .. ”. Kỵ binh là lợi thế của họ. Hoặc xa, hoặc gần, hoặc hơn, hoặc ít, hoặc tụ, hoặc tán, hoặc hiển, hoặc ẩn, xuống như trên trời rơi xuống, đi như chớp ”. Người Mông Cổ đã học cách chế tạo vũ khí xây thành từ Tây Á và Trung Quốc, vì vậy lực lượng của họ trở nên rất hùng mạnh. Các chiến binh Mông Cổ đã chiếm được hầu hết châu Âu và Trung Cận Đông, san bằng thành trì của nhà Tống, và chiếm toàn bộ Trung Quốc cổ đại. Ở Đức lúc bấy giờ xuất hiện một lời cầu nguyện: “Chúa cứu chúng tôi khỏi cơn thịnh nộ của Tacta (Mông Cổ)”. Nhưng đội quân hùng hậu ấy, thiện chiến ấy, đã tấn công Đại Việt ba lần.
Trần Quốc Tuấn, vị tổng chỉ huy của nhà Trần từng nói: “Quân tử cốt, không trụ”. Trong Binh pháp yếu lược, Người đã chỉ rõ: “Giặc dùng trận địa, ta dùng đoản binh, ta dùng đoản binh để hãm trận địa, dùng trận địa để trấn áp binh lính”. Với tài thiện chiến của các nghĩa quân, binh, bộ binh… cùng với địa thế sông núi hiểm trở, quân dân nhà Trần đã đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông do Thoát Hoan chỉ huy. Một câu hỏi được đặt ra: Quân đội thời Trần đã được trang bị quần áo, vũ khí như thế nào để đánh thắng quân xâm lược?
Trang phục chiến đấu của dân quân
Lực lượng nghĩa quân của Hưng Đạo Vương từng đóng ở làng A Cao – A Côi (nay là xã An Đồng, An Khê, An Thái, An Vũ … huyện Quỳnh Phụ) và dọc theo bờ sông Hóa tiến sát và cửa biển Đại Bàng (huyện Thái Thụy, Thái Bình). Trong đội quân của Trần Quốc Tuấn có nhiều nông nô, nô lệ, nông dân tham gia. Họ là những người dân nghèo nhưng có lòng dũng cảm, kiên cường, mưu trí, họ sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc. Vì nghèo nên họ không thể có áo giáp sắt, áo lông vũ như những người lính chính quy mà triều đình trang bị. Cái khó ló cái khôn! Những người dân quân này đã tạo ra trang phục, giày dép và vũ khí của riêng họ bằng những vật liệu sẵn có, dễ sử dụng. Trang phục của họ rất bền nên cung tên, dấu ấn sắc bén của Nguyên Mông cũng khó có thể xuyên thủng.
Chiến thuật :”Lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”

Các bô lão ở A Sào cũng cho biết, trước đây, khi mở hội đền A Sào vào tháng 2 (mừng sinh nhật) và tháng 8 âm lịch (Giỗ Tổ Hưng Đạo Vương) hàng năm, lễ hội luôn tái hiện cảnh đánh giặc Nguyên Mông. Sử sách ghi lại như trên, giặc Nguyên lúc bấy giờ kỵ binh rất mạnh, cung nỏ cứng, gươm nhọn, dao, giáo rất dài. Để chống lại một đạo quân thiện chiến như vậy, binh lính của Hưng Đạo Vương thường được trả công theo định đô (mỗi quân 30 đô, mỗi đô 30 – 50 người). Khi ra trận, mỗi đô la thường được chia thành từng tốp ba đồng. Trong nhóm ba người đó, có một người cầm chiếc khiên mây (chiếc khiên làm bằng mây có trộn bột giấy). Người mang khiên có nhiệm vụ đỡ giáo, gươm, tên của địch để binh nhì dùng lưỡi câu móc, ngoạm vào chân ngựa hoặc người cưỡi ngựa, làm cho ngựa ngã, nếu không ngựa sẽ bật dậy lưỡi câu nhọn, giật mạnh, làm đau chân ngựa), quật ngã kẻ thù đang cưỡi ngựa xuống đất. Người lính thứ ba có nhiệm vụ dùng giáo hoặc dao để đâm và chém kẻ thù đã ngã ngựa.
Cách đánh đơn giản nhưng được thực hành nhuần nhuyễn của binh lính nhà Trần đã khiến kẻ thù khiếp sợ và hạn chế rất nhiều ưu thế của kỵ binh địch. Đồng thời, lễ hội xưa tại đền A Sào, Qua Từ – thờ Đức Hưng Đạo Đại Vương của dân tộc A Sào nói riêng, A Cảo – A Côi nói chung, cũng cần được khôi phục để góp phần cứu vãn cổ tự truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
Kết luận
Mong là những thông tin về chủ đề: Vì sao quân Mông Cổ mạnh mà vẫn bị quân ta đánh bại trên sẽ hữu ích với bạn đọc trong quá trình tìm hiểu, học tập và nghiên cứu.