Trong suốt 35 năm từ 1986 đến nay Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong chính sách tiền tệ. Mỗi giai đoạn sự đổi mới và phát triển của hoạt động ngân hàng đều gắn liền với vận mệnh của cả dân tộc. Cùng theo dõi bài viết sau để có cái nhìn rõ hơn về chính sách tiền tệ Việt Nam qua các giai đoạn đã có sự thay đổi như thế nào nhé!
Chính sách tiền tệ Việt Nam qua các giai đoạn
Giai đoạn năm 1986 – 1989
Ở giai đoạn này Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới thực sự. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn cụ thể như sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn, lạm phát tăng (năm 1986 lên đến 774,7%), ngân sách thâm hụt trầm trọng,… Nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, cấm đoán tự do sản xuất và lưu thông hàng hóa…
Nhờ cơ chế đổi mới về đường lối và chính sách như xóa bỏ bao cấp, tự do sản xuất lưu thông hàng hóa, tự do hóa giá cả… mà những khó khăn kinh tế phần nào được khắc phục đáng kể. Về điều hành chính sách tiền tệ, NHNN chuyển sang cơ chế lãi suất đã thu hút số lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ và thị trường, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, chính sách tiền tệ Việt Nam chưa được định hình rõ ràng, NHNN vẫn còn thực hiện cung ứng tiền thông qua chỉ đạo của Chính phủ, vẫn chưa thực hiện theo những quy luật kinh tế hàng hóa và lưu thông tiền tệ.
Giai đoạn năm 1990 – 1996
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã đẩy nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng ngày càng khó khăn hơn. Tình hình lạm phát tuy đã được khống chế nhưng vẫn trên dưới 10%/năm.
Về chính sách tiền tệ Việt Nam trong giai đoạn này, NHNN vẫn tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Vốn tín dụng được mở rộng cho tất cả mọi người và đạt mức tăng trưởng bình quân 36%/năm, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng trong nhiều năm sau.
Giai đoạn năm 1997 – 2005
Năm 1997 – 1998, khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước, tăng trưởng kinh tế chững lại, mọi hoạt động về xuất nhập khẩu giảm, đầu tư nước ngoài ngưng trệ và hệ thống ngân hàng đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức.
Về các biện pháp ứng phó với khủng hoảng tài chính – tiền tệ, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng, nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng còn tồn đọng và tiềm ẩn nhiều hệ lụy khi gặp cú sốc từ bên ngoài. Mô hình tăng trưởng dựa vào tăng đầu tư; tín dụng ngân hàng tăng bình quân hàng năm 25 – 30%/năm, lạm phát tăng cao trở lại, đồng thời tỉ giá biến động mạnh.
Giai đoạn năm 2006 – 2010
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 – 2009 và suy thoái kinh tế sau đó đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế của Việt Nam. Trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế trong nước và trên thế giới, chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn này được điều hành linh hoạt theo từng thời kỳ:
- Từ năm 2006 đến tháng 10/2008: Tập trung khống chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hạn chế tăng trưởng nóng.
- Từ tháng 11/2008 đến cuối năm 2010: Nới lỏng để hạn chế nền kinh tế suy giảm.
Giai đoạn năm 2011 – 2016
Trong giai đoạn 2011 – 2016, nền kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều thách thức lớn, đồng thời kéo theo lạm phát tăng cao (từ 11,8% tăng vọt lên 18,13% trong năm 2011). Thị trường tiền tệ và thị trường vàng có sự biến động lớn về mặt bằng lãi suất cho vay ở mức cao, lên đến 20 – 25%/năm.
Trong giai đoạn này, chính sách tiền tệ Việt Nam đã có sự đổi mới mạnh mẽ do công tác dự báo, thống kê về hoạt động tiền tệ ngân hàng có phần hiệu quả hơn so với giai đoạn trước.
Giai đoạn năm 2016 – 2021
Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này chịu tác động tiêu cực cả về cung và cầu do diễn biến bất thường của nền kinh tế thế giới như thiên tai, dịch bệnh ngày càng trầm trọng, căng thẳng thương mại giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ và hàng loạt các vấn đề khác.
Đặc biệt năm 2020, đại dịch Covid 19 bùng phát gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế của các nước. Nhưng Việt Nam nằm trong số ít các quốc gia đã thành công trong việc đối phó và ngăn chặn dịch bệnh, hạn chế phần nào ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước. Duy trì tốc độ tăng trưởng GDP năm 2020 tăng 2,91%.
Trong năm 2020, trước tình hình diễn biến phức tạp của đại dịch Covid 19, NHNN Việt Nam đã có tới 3 lần điều chỉnh mức lãi suất với tổng mức giảm từ 1,5-2%/năm. Quyết định giảm các mức lãi suất cùng với giải pháp chính sách tiền tệ linh hoạt và đồng bộ đã góp phần tháo gỡ phần lớn khó khăn cho nền kinh tế.
Từ năm 2021, mặc dù nền kinh tế thế giới được dự báo là sẽ phục hồi mạnh mẽ sau khi nhiều công ty dược quốc tế bắt đầu sản xuất vaccine phòng chống Covid-19. Thế nhưng từ đầu năm 2021 biến thể virus mới có khả năng kháng thuốc và tốc độ lây lan nhanh. Dẫn đến số ca nhiễm và tử vong không ngừng gia tăng. Trước tình hình này đòi hỏi Việt Nam phải theo dõi sát sao diễn biến đại dịch Covid-19 trên thế giới, để từ đó có những chính sách và giải pháp phù hợp để phục hồi kinh tế sau hậu Covid-19.
Lời kết
Tóm lại, trong suốt 35 năm đổi mới và hội nhập, nhìn chung chính sách tiền tệ Việt Nam qua các giai đoạn mặc dù vẫn còn một số khó khăn và hạn chế. Song ngành Ngân hàng cũng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, đóng góp rất lớn cho công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.